Friday, November 23, 2012

Dáng Ngọc



Tuổi Hồng



Tuổi Mơ




Em Về ...



Bỡ Ngỡ ...



Cố Nhân Ơi !



Tàn Thu !



Mai Tôi Về ...



Phố Cũ ... Trường Xưa.



Cơn Mưa Chiều ...



Hai Tà Áo



Thursday, November 8, 2012

Wednesday, November 7, 2012

Kinh ngạc trước tạo hình nghệ thuật với... bàn tay

Với chất liệu là hai bàn tay, các nghệ sĩ tạo hình trên khắp thế giới đã cho ra đời những tác phẩm nghệ thuật đẹp mắt và thật đến kinh ngạc.

Bộ sưu tập “Handimals”
Kinh ngạc trước tạo hình nghệ thuật với... bàn tay

Guido Daniele, nghệ sĩ người Ý nổi tiếng với những thử nghiệm nghệ thuật sáng tạo, kể từ năm 1990, anh đã bắt đầu sáng tạo ra những tác phẩm dùng chính con người làm chất liệu như “body painting” (vẽ tranh toàn thân) hay “hands painting” (vẽ tranh trên bàn tay).
Kinh ngạc trước tạo hình nghệ thuật với... bàn tay

Trong bộ sưu tập “Handimals” này, Daniele ban đầu được một công ty quảng cáo thuê vẽ tranh toàn thân (body art) khắc họa những loài vật khác nhau. Nhưng khi nghiên cứu tạo hình cơ thể của các loài vật, ngay lập tức Daniele nhận thấy chúng có hình thù khá giống với hình dáng bàn tay người. Bộ sưu tập “Handimal” (kết hợp từ hai từ đơn: Hand – bàn tay và Animal – Loài vật) ra đời và trở thành thử nghiệm nghệ thuật nổi tiếng nhất, được yêu thích nhất cho tới nay của Daniele.
Kinh ngạc trước tạo hình nghệ thuật với... bàn tay

Đôi bàn tay mà Daniele thường dùng làm “mẫu” là tay của con trai và con gái anh bởi “nếu bạn phải dành hàng tiếng đồng hồ làm việc với đôi bàn tay của ai đó, tốt nhất nên là đôi bàn tay của người mà bạn yêu quý. Chẳng có gì khổ hơn là ngồi tập trung làm việc với đôi bàn tay run rẩy và lạ lẫm. Một mẫu tạo hình “handimal” thường mất từ 3-4 tiếng thao tác. Riêng mẫu đại bàng tung cánh mất tới 10 tiếng đồng hồ. Phần khó nhất đối với Daniele khi thực hiện tác phẩm không phải là khi tô vẽ mà là khi thấy tác phẩm của mình bị rửa trôi và mất dần dưới vòi nước xối xả.
Bộ sưu tập “You’re in Good Hands”

Bộ sưu tập “You’re in Good Hands”

Bộ sưu tập “You’re in Good Hands”

Bộ sưu tập “You’re in Good Hands”

Bộ sưu tập “You’re in Good Hands”

Bộ sưu tập “You’re in Good Hands”

Bộ sưu tập “You’re in Good Hands”

Bộ sưu tập “You’re in Good Hands”

Bộ sưu tập “You’re in Good Hands”

Gạch Nối trong chữ Việt


1. Cái gạch nối


Trong chữ Việt, cái gạch nối dùng để kết hợp những thành tố viết rời của một từ gồm nhiều âm tiết. Nếu viết riêng rẽ thì những âm tiết nói trên sẽ có một nghĩa khác, tức là nghĩa riêng biệt của từng âm tiết. Sau đây là một vài thí dụ:


- Ðộc có nghĩa là một, có số lượng chỉ một mà thôi. Lập có nghĩa là đứng thẳng. Ghép lại, độc-lập có nghĩa:

1. Tự mình sống, không dựa vào người khác. Sống độc-lập.
2. (Nước hoặc dân tộc) có chủ quyền. Nền độc-lập dân tộc.

- Bà là người đàn bà thuộc thế hệ sanh ra cha hoặc mẹ ta. Con là người thuộc thế hệ mà ta sanh ra. Ghép lại, bà-con có nghĩa là thân quyến, người có quan hệ họ hàng. Một người bà con xa.


- Cay là có vị như khi ăn ớt, ăn tiêu, ăn gừng hoặc khi uống rượu. Ðắng là có vị như khi ăn trái khổ qua, trái bồ hòn, mật cá hoặc uống thuốc bắc. Ghép lại cay- đắng (hay đắng-cay) có nghĩa là đau khổ, xót xa. Thất bại cay-đắng.


Như vậy, ta thấy cái gạch nối có một vai trò rất quan trọng. Nó dùng để phân biệt từ đơn với từ ghép. Từ cuối thế kỷ 19 và trong những thập niên đầu của thế kỷ 20 này, theo ngữ pháp, ta dùng cái gạch nối đối với những từ ghép, mục đích là để câu văn được rõ nghĩa. Trong học đường, thời bấy giờ, đối với những từ ghép, thiếu cái gạch nối là một lỗi chánh tả tương tự như các lỗi chánh tả khác: c với t (các/cát), ch với tr (chương/trương), d với gi (dang/giang), dấu hỏi với dấu ngã...


2. Ngữ pháp cú


Qui tắc về việc sử dụng cái gạch nối trong tiếng Việt đã có từ cuối thế kỷ 19, thời chữ quốc ngữ mới được hình thành. Nhà bác học, cũng là nhà ngữ học Trương Vĩnh Ký (1839 - 1898) đã viết: "Ðể tránh lẫn lộn từ đơn và từ đôi, từ kép, chúng tôi đã chấp nhận, trong các từ điển, văn phạm và các ấn bản khác của chúng tôi, dùng gạch nối để xác định từ kép và ghép đôi một số mẫu âm khác của chúng tôi, dùng gạch nối để xác định từ kép và ghép đôi một số mẫu âm làm cho âm cuối dễ nghe như líu-lo, dăng-dẳng." Gần đây, dựa theo các sách đã xuất bản, chúng tôi ghi nhận, trên những sách in trước năm 1975, các tác giả vẫn còn dùng cái gạch nối đối với những từ ghép. Sự kiện này cho biết, vào cuối thế kỷ 19 và hơn nửa đầu thế kỷ 20 này, những người làm giáo dục và văn học đã sử dụng cái gạch nối trong những trường hợp sau đây:


2.1 Từ ghép Hán-Việt: tự-do, độc-lập, ngôn-ngữ-học, thuận-thinh- âm, hồng- thập-tự, tiềm-thủy-đỉnh, hàng-không-mẫu-hạm, thủy-quân-lục- chiến.


2.2 Từ ghép thuần Việt:


- Từ kép, cũng gọi là từ láy, gồm một âm có nghĩa với một âm không nghĩa để cho xuôi tai: bạc-bẻo, dễ-dàng, đầy-đặn, khỏe-khoắn, líu-lo, mặn- mà, nhỏ- nhắn, nở-nang, sắc-sảo, vững-vàng, xót-xa.


- Từ kép gồm hai âm không có nghĩa riêng, nhưng khi ghép lại, hai âm tạo thành một từ có nghĩa chung: bâng-khuâng, hững-hờ, lai-láng, mênh-mông, mơn- mởn, ngậm-ngùi, thênh-thang.


- Từ kép gồm hai câu có nghĩa riêng: biển-dâu, bướm-ong, cay- đắng, đầy- đủ, mắm-muối, mệt-mỏi, phẳng-lặng, vàng-thau.


- Từ kép gồm hai âm đồng nghĩa: chợ-búa, dơ-bẩn, dư-thừa, đau- ốm, gầy- ốm, hình-ảnh, lẫn-lộn, lựa-chọn, mập-béo, nhỏ-bé, nông-cạn, ô-dù, sắc-bén, thổi- nấu, thương-yêu, to-lớn, rơi-rớt.


- Từ kép gồm hai từ đồng âm: chậm-chậm, đời-đời, hàng-hàng, hay-hay, hiu-hiu, lớp-lớp, mãi-mãi, ngày-ngày, rầu-rầu, xa-xa...


2.3 Nhân danh (tên tục, tên hiệu): Nguyễn-Du, Tố-Như, Trương-Vĩnh- Ký, Ðào- Duy-Anh, Dương-Quảng-Hàm, Trần-Trọng-Kim, Nguyễn-Hiến-Lê, Vương-Hồng- Sển.


2.4 Ðịa danh: Việt-Nam, Hoa-Kỳ.


2.5 Danh từ riêng phiên âm: Hoa-Thịnh-Ðốn, Mạc-Tư-Khoa.


2.6 Từ có quan hệ qua lại với nhau: từ điển Hán-Việt, bang giao Mỹ- Việt, luật hỏi-ngã, thi văn cổ-kim, văn hóa Ðông-Tây, phát triển khoa-học- kỹ-thuật.


2.7 Danh từ chung phiên âm: cát-xết, vi-đê-o. Ðối với một số tên chung phiên âm đã hoàn toàn Việt hóa, ta bỏ luôn cái gạch nối: cà phê, cà vạt, câu lạc bộ, đô la, ga ra, nóc ao, ra đa, ra gu, ti vi, xích lô.


2.8 Một số từ ngữ mà các âm tiết không thể tách rời: chợ-nhà- lồng, khô-cá- chỉ- vàng, tại-vì-bởi.


2.9 Giữa các con số chỉ ngày tháng năm: ngày 1-1-1998


2.10 Giữa hai nhóm số chỉ năm để nói lên khoảng cách thời gian: 1975 - 1998.


Trên đây là những qui tắc trong việc sử dụng cái gạch nối khoảng trước năm 1975. Tuy nhiên cũng phải ghi nhận là việc dùng cái gạch nối này của những người làm văn hóa chưa thống nhất. Có tác giả áp dụng triệt để các nguyên tắc, nhưng cũng có tác giả chỉ áp dụng một cách đại khái hay tương đối, tùy theo quan niệm của mỗi cá nhân. Thậm chí, có trường hợp cùng một tác giả mà trong một bài viết, đối với các từ ghép (cả Hán-Việt lẫn thuần Việt) có lúc dùng cái gạch nối, có lúc không.


Xin trích dẫn một đoạn trong lời tựa "Vì sao có sách này?" của cuốn "Giản-yếu Hán-Việt Từ-điển" của nhà học giả tiền bối Ðào-Duy-Anh, viết ngày 1-3-1931, Nxb Minh Tân, Paris, in lại năm 1949:


Vô luận nước nào, văn-tự đã phát đạt đến một trình độ khá khá đều phải có những sách Tự-điển hoặc Từ-điển để làm tiêu-chuẩn và căn-cứ cho người học. Quốc-văn của ta ngày nay đã có chiều phát đạt, thế mà ta chưa thấy có một bộ sách Tự-điển hoặc Từ-điển nào, đó thực là một điều khuyết-điểm lớn mà ai cũng phải công-nhận.


Trong đoạn văn trên đây, theo nguyên tắc, những từ in nghiêng phải có cái gạch nối, vì đó là những từ Hán-Việt và từ ghép thuần Việt. Nhưng vì sao tác giả không dùng gạch nối? Sự kiện này cho thấy, việc sử dụng cái gạch nối khó đạt đến sự thống nhất như trên lý thuyết.


3. Ngữ pháp mới


Khoảng từ năm 1975 cho đến nay:


3.1 Trong năm trường hợp ghi từ mục 2.1 đến 2.5 trên đây, tuyệt đại số những sách báo xuất bản trong nước và tại hải ngoại, ta đã xóa bỏ hẳn cái gạch nối. Sự "cải cách" này đã diễn ra âm thầm. Có phải chăng nó đã xuất phát từ một "ngữ pháp bất thành văn." Các tác giả tiền bối lần hồi bỏ cái gạch nối. Thế là các tác giả hậu bối cũng theo gương.


3.2 Trong năm trường hợp kế tiếp, từ mục 2.6 đến 2.10, ta vẫn duy trì cái gạch nối.


3.3 Từ ngày trong nước và ở hải ngoại hai phương tiện điện thoại và điện thư (fax) được phổ biến, ta đã dùng cái gạch nối để phân cách các nhóm số của hai hệ thống này. Ðiện thoại: 714 - 500-4000, Ðiện thư: 714 - 800-7000.


3.4 Chúng ta thử tìm hiểu xem nguyên nhân nào khiến cho, sau năm 1975, cái gạch nối đã được xóa đi trong năm trường hợp từ 2.1 đến 2.5.


Thực tế cho thấy, việc dùng gạch nối ở năm trường hợp nói trên đã gây một số bất tiện và phiền phức.


- Người viết phải bận tâm đến cái gạch nối, mất thời giờ suy nghĩ, thời giờ viết lên giấy và thời giờ dò lại bài xem có sai sót không?


- Trong ngành ấn loát, người đánh máy và người sắp chữ phải nhọc công và khổ sở vì cái gạch nối. Trước kia, trong thời kỳ ngành ấn loát nước ta còn lạc hậu, việc sắp chữ để làm bản in "typo" được thực hiện theo lối thủ công. Trong công việc sắp chữ, thêm một cái gạch nối kể như thêm một con chữ.


Việc xóa bỏ gạch nối không ảnh hưởng trầm trọng đến câu văn về mặt ngữ nghĩa. Người đọc bình thường dễ dàng phân biệt từ đơn và từ ghép. Cả người viết và người đọc đã mặc nhiên hiểu ngầm là các từ ghép Hán- Việt và thuần Việt luôn luôn được nối với nhau bằng cái "gạch nối vô hình." Ta đã "hi sinh" cái hợp lý để đổi lấy cái thực dụng, cái giản tiện. Ngày trước, có cái gạch nối là hợp lý. Ngày nay không có cái gạch nối cũng hợp lý. Ngữ pháp chung qui chỉ là một qui ước, một sự giao ước giữa người viết và người đọc.


4. Viết dính liền


Từ xưa tới nay, cả ở trong nước lẫn ở hải ngoại, một số người có xu hướng viết dính các âm tiết ở hai trường hợp 2.1 và 2.2: tựdo, vữngvàng, ngônngữhọc, kimtựtháp, hàngkhôngmẫuhạm. Giải pháp này là để thay thế cái gạch nối đối với các từ ghép. Tuy nhiên, việc cải cách này gặp một trở ngại khác và xét không ổn nên không được hưởng ứng. Lý do là những từ viết dính liền có thể sẽ bị đọc và và bị hiểu sai lệch.


4.1 Những từ ghép dính liền có thể được đọc một cách khác:


Bình an viết bìnhan có thể đọc là bì nhan hoặc bìn han


Giáo án viết giáoán có thể đọc là giá oán hoặc gi áo án


Phátââm --> phát âm --> phá tâm


Phát hành --> pháth ành --> phá thành


Tình ái --> tìn hái --> tì nhái --> tìn hái


4.2 Những từ vốn chỉ có một âm nay có thể được đọc tách rời thành hai âm:


Thúy có thể đọc là thú y


Khối --> kho ái hoặc khó ai


5. Kết Luận:


Những người chủ trương duy trì cái gạch nối trong những từ ghép Hán-Việt và thuần Việt và những người chủ trương viết dính liền những từ ghép lại này đều có lý. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đối với bất cứ ngôn ngữ nào cũng vậy, người ta không thể ép nó vào một khuôn mẫu hợp lý được. Nói và viết, đúng hay sai là một thói quen, lập đi lập lại qua nhiều thế hệ. Mà thói quen xuất phát từ sự thực dụng. Và một khi đã thông dụng thì mọi người đều phải theo. Khó mà đem môn lý luận ra để phê phán được. Trừ phi, có điểm nào quá vô lý, nếu muốn sửa đổi thì phải có sự đồng thuận của số đông.

Phụng Nghi

Cách Sử Dụng "I" và "Y" và Nguyên Tắc Đánh Dấu trong Tiếng Việt

(Bài dành cho các bạn trẻ và các thầy cô giáo dạy lớp Việt Ngữ ở hải ngoại)

Khải Chính Phạm Kim Thư


Nhiều bạn trẻ ta thán rằng khi viết văn, một số người có khuynh hướng đổi "y" thành "i" trong các trường hợp như "Bắc Mỹ" thành ra "Bắc Mĩ," "Quý Mùi" thành ra "Quí Mùi," và "thế kỷ" thành ra "thế kỉ,"v.v. Họ yêu cầu tôi viết bài để giúp họ hiểu rõ tại sao lại có những trường hợp như thế. Chính vì thế, chúng tôi mới có động lực để viết bài "Cách Sử Dụng 'i' và 'y' trong Tiếng Việt." Muốn hiểu rõ về cách ghép vần với nguyên âm "i" hay "y" và phương pháp đánh dấu trong tiếng Việt, trước hết chúng ta cần ôn lại về các chữ cái (tự mẫu) cũng như các nguyên âm và phụ âm.


I. Nguyên âm và Phụ âm trong Tiếng Việt


Chữ " i " là chữ cái (tự mẫu) thứ 9 trong 23 chữ cái của tiếngViệt và "y" là chữ cái cuối cùng trong 23 chữ cái của tiếng Việt.


23 chữ cái của tiếng Việt gồm có: a, b, c, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n, o, p, q, r, s, t, u, v, x, y. Trong 23 chữ cái này, có 6 nguyên âm chính (a, e, i, o, u, y) và 17 phụ âm đơn (b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, x). Bốn nguyên âm "a, e, o, u" trong số 6 nguyên âm chính "a,e, i, o, u, y" này còn có thêm các dấu nữa (ă, â, ê, ô, ơ, ư) nên 4 nguyên âm này trở thành 10 nguyên âm: a, ă, â, e, ê, o, ô, ơ, u, ư. Chính vì lý do này mà tiếng Việt có tất cả 12 nguyên âm: a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y. Ngoài 17 phụ âm đơn, tiếng Việt còn có các phụ âm kép. Các phụ âm kép do hai hay ba phụ âm đơn làm thành (ch, gh, kh, ng, ngh, nh, ph, th, tr) hoặc do một phụ âm đơn và một nguyên âm chính (i hay u) làm thành (gi, qu). Chính vì thế, tiếng Việt có tất cả 28 phụ âm: b, c, ch, d, đ, g, gh, gi, h, k, kh, l, m, n, ng, ngh, nh, p, ph, q, qu, r, s, t, th, tr, v, x, và 12 nguyên âm: a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y.


II. Cách Sử Dụng Nguyên Âm "I" và "Y"


Tùy theo mỗi vần và theo nghĩa của mỗi chữ, có những trường hợp ta chỉ được dùng "y" hay "i" để viết, chứ không thể dùng "i" để thay thế cho "y" hay dùng "y" để thay thế cho "i" được. Ở một số trường hợp khác, trong cùng một chữ, có người viết bằng "i" có người viết bằng "y" như trong trường hợp "quí" hay "quý" chẳng hạn. Tuy nhiên, theo phong tục tập quán, hầu hết các nhà văn thường viết các chữ với nguyên âm "y" hơn là"i" khi các chữ này có cùng một nghĩa và phát âm giống nhau. Lý do chính là vì các chữ có nguyên âm "y" trông có vẻ lịch sự, kính trọng, quý mến, trang nhã, mỹ thuật, và đầy tình cảm hơn những chữ viết bằng nguyên âm "i," chẳng hạn như trong trường hợp của nhóm chữ "quý văn hữu," "quý ông quý bà," "quý quan khách," "quý bạn," "quý vị," "quý chiến hữu," hay "quý cụ,"v.v.


A. Những Trường Hợp Có Thể Dùng "I" hay "Y" Cũng Được


Tùy theo tập quán hay thói quen, có người dùng "i" hay "y" để viết cùng một chữ. Dù là được viết dưới dạng bằng nguyên âm "i" hay "y," nhưng khi được đọc lên thì chữ này vẫn có cùng một âm thanh và cùng một nghĩa.


Thí dụ:


- Ì ạch, ỳ ạch; ì ra, ỳ ra; i như, y như; v.v.


- Hi hữu, hy hữu; du hí, du hý; hí đài, hý đài; hí hởn, hý hởn; hí hửng, hý hửng; hí họa, hý họa; hí kịch, hý kịch; hí viện, hý viện; hí trường, hý trường; báo hỉ, báo hỷ; hoan hỉ, hoan hỷ; hỷ tín, hỉ tín; v.v.


- Kí cóp, ký cóp; kì cạch, kỳ cạch; kì cọ, kỳ cọ; một li, một ly (millimeter), v.v.


- Mỹ lệ, mĩ lệ; mỹ cảm, mĩ cảm; mỹ mãn, mĩ mãn; mỹ miều, mĩ miều; mỹ nữ, mĩ nữ; mỹ nghệ, mĩ nghệ; mỹ nhân, mĩ nhân; mị dân, mỵ dân; v.v.


- Ti tiện, ty tiện; ty tiểu, ti tiểu; tự ty mặc cảm, tự ti mặc cảm; ty trưởng, ti trưởng; năm tý, năm tí; tỳ bà, tì bà; tỳ nữ, tì nữ; tỳ tướng, tì tướng; thị tỳ, thị tì; tỳ thiếp, tì thiếp; tỳ vết, tì vết; tỳ vị, tì vị; tỉ dụ, tỷ dụ; một tỉ đồng, một tỷ đồng; tỉ lệ, tỷ lệ; tỉ mỉ, tỷ mỉ; tỷ muội, tỉ muội; tỉ như, tỷ như; tỉ số, tỷ số; tỉ thí, tỷ thí; tỉ trọng, tỷ trọng; năm tỵ, năm tị; tỵ nạn, tị nạn; tị nạnh, tỵ nạnh; v.v.


- Qui, quy (con rùa); nội qui, nội quy; chính qui, chính quy; vu qui, vu quy; qui chế, quy chế; qui củ, quy củ; qui định, quy định; qui hàng, quy hàng; qui hồi, quy hồi; qui luật, quy luật; qui mô, quy mô; qui nạp, quy nạp; qui phục, quy phục; qui tắc, quy tắc; qui thuận, quy thuận; qui tiên, quy tiên; qui tội, quy tội; qui tụ, quy tụ; qui ước, quy ước; qui y, quy y; quí báu, quý báu; quí danh, quý danh; quí hóa, quý hóa; quí hồ, quý hồ; quí hữu, quý hữu; quí khách, quý khách; Quí Mùi, Quý Mùi; quí nhân, quý nhân; quí nữ, quý nữ; quí ông, quý ông; quí phái, quý phái; quí phi, quý phi; quí quốc, quý quốc; quí san, quý san; quí tòa, quý tòa; quí tộc, quý tộc; quí trọng, quý trọng; quí tử, quý tử; quí vật, quý vật; quí vị, quý vị; quì gối, quỳ gối; quì lạy, quỳ lạy; quỉ kế, quỷ kế; quỉ quái, quỷ quái; quỉ quyệt, quỷ quyệt; quỉ sứ, quỷ sứ; quỉ thần, quỷ thần; thủ quĩ , thủ quỹ; ngân quĩ, ngân quỹ; ký quĩ, ký quỹ; quĩ đạo, quỹ đạo; quị lụy, quỵ lụy...


Ghi Chú:


* Khi viết văn, nhiều người chỉ ghép phụ âm kép "qu" với nguyên âm "y." Tuy nhiên, trong vài quyển Việt Nam Tự Điển, tác giả chỉ đề cập trường hợp của các chữ do phụ âm kép "qu" ghép với nguyên âm "i" mà thôi. Còn về phụ âm kép "qu" ghép vời nguyên âm "y" thì các tác giả chỉ ghi: "quy, xt qui; quý, xt quí; quy,ø xt quì; quỷ, xt quỉ; quy,õ xt quĩ; quỵ, xt quị" (chữ "xt" là dạng viết tắt của "xem từ"). Có quyển tự điển lại ghi "quy (qui)," "quý (quiù)," "quỳ (quiø)," "quỷ (quỉ)," "quỹ (quiõ)," và "quỵ (quị)." Điều này có nghĩa là ta dùng "y" hay "i" để viết chữ có cùng một nghĩa cũng được.


* Trong trường hợp danh từ riêng như tên thành phố, tên nước, hay tên người, v.v., nếu các chữ đã được viết bằng "i" hay "y" thì ta không được quyền tự ý thay đổi như trong trường hợp của tên thành phố hay tên người sau đây: Thị xã Qui Nhơn, Mỹ Quốc, Mỹ Châu, tỉnh Mỹ Tho, Mị Châu (con gái vua Thục An Dương Vương lấy Trọng Thủy, con của Triệu Đà), Mị Nương (con gái vua Hùng Vương), GS. Doãn Quốc Sỹ, và CH Trần Thy Vân, v.v.


* Khi đánh các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, và nặng lên chữ "quy" hay "qui," chúng ta phải đánh dấu lên trên nguyên âm "y" hay "i" vì chữ "u" trong chữ phụ âm kép "qu" đã cùng vơiù "q" để biến thành phụ âm kép chứ không còn là một nguyên âm nữa. Trong trường hợp phụ âm kép "th" ghép với vần "ui" hay "uy" thì các dấu phải đánh lên nguyên âm thứ nhất "úi" (thúi) và "úy" (thúy). Nếu nguyên âm thứ 2 có dấu sẵn như "uê" hay "uơ" thì các dấu phải đánh lên nguyên âm thứ 2 này "uế" (thuế) và "uở" (thuở). Xin xem tiếp phần "III" nói về Nguyên Tắc Đánh Dấu Trong Tiếng Việt ở dưới đây.


B. Những Chữ Chỉ Được Viết với Nguyên Âm I"


1. Những Chữ Có Các Vần Sau Đây Chỉ Được Viết với Nguyên Âm "I": ai, ia, ich, iêc, iêm, iên, iêng, iêp, iết, iêu, im, in, inh, ip, it, iu, oai, oi, ôi, ơi, ui, uôi, ưi, ươi, v.v.


-Ai: Ai oán, thất bại, cải dạng, chài lưới, dai dẳng, khán đài, gái tơ, âm giai, hài lòng, khai giảng, tương lai, mái nhà, van nài, ngái ngủ, lải nhải, lẽ phải, quái kiệt, rải rác, sai bảo, tai vạ, thái độ, từng trải, vai trò, tiêu xài, v.v.


- Ia: Ỉa đái, bia miệng, địa chỉ, đôi hia, trông kìa, khía cạnh, lia lịa, mỉa mai, cái nĩa, nghĩa cử, tứ phía, chầu rìa, sỉa xuống, tia sáng, cái thìa, tría lịa, hú vía, xỉa răng, v.v.


- Ich: Ích lợi, bích chương, chích thuốc, xê dịch, mục đích, hích nhau, đả kích, khiêu khích, lý lịch, tĩnh mịch, chật ních, nghịch ngợm, nhúc nhích, phình phịch, cũ rích, sình sịch, diện tích, sở thích, chỉ trích, xích đạo, v.v.


- Iêc: Xanh biếc, chiếc thuyền, cá diếc, điếc tai, liếc mắt, mắng nhiếc, thương tiếc, ấm thiếc, công việc, xem xiếc, v.v.


- Iêm: Châm biếm; chiêm ngưỡng, bao diêm, điềm lành, hiếm hoi, kiếm hiệp, liêm sỉ, niêm luật, truyền nhiễm, chuyện phiếm, siểm nịnh, tiêm thuốc, thiêm thiếp, viêm lương, Xiêm La, v.v.


- Iên: Biên bản, chiến tranh, diễn thuyết, điên đảo, hiên ngang, kiên cố, xui khiến, liên bang, miền xuôi, nghiên cứu, tất nhiên, luân phiên, trước tiên, thiên vị, triền miên, viên mãn, xiên xẹo, v.v.


- Iêng: Biếng nhác, chiêng trống, chết điếng, tháng giêng, hiêng hiếng, kiêng khem, khiêng vác, liểng xiểng, súc miệng, nghiêng ngửa, riêng biệt, siêng học, hòm siểng, mang tiếng, linh thiêng, xiềng xích, v.v,


- Iêp: Ngọc diệp, trùng điệp, hiếp đáp, duyên kiếp, khiếp sợ, tầy liếp, cơ nghiệp, nhiếp ảnh, trực tiếp, thiệp mời, v.v.


- Iêt: Biết điều, chiết cây, diệt vong, giết giặc, kiệt lực, tinh khiết, quyết liệt, miệt mài, ác nghiệt, nhiệt huyết, quân phiệt, chạy riết, siết chặt, trinh tiết, kiến thiết, triết lý, viết văn, Việt Nam, xiết chặt, v.v.


- Iêu: Phát biểu, chiếu cố, cái diều, điêu luyện, hiếu đễ, kiêu ngạo, cô liêu, văn miếu, nồi niêu, phì nhiêu, phiêu bạt, bún riêu, siêu nhân, tiêu chuẩn, thiếu phụ, thủy triều, xiêu vẹo, v.v.


- Im: Im lặng; bím tóc, con chim, dìm thuyền, him híp, kim chỉ, lim dim, mỉm cười, con nhím (dím), chiếu phim, rim cá, trái sim, tìm tòi, chú thím, v.v.


- In: In sách, bịn rịn, chín chắn, gìn giữ, kín đáo, mịn màng, nín hơi, nghìn đời, nhịn nhục, đèn pin, phin cà phê, nước rịn ra (nhỏ ra, rỉ ra), tin cậy, năm thìn, vịn cớ, xin lỗi, v.v.


- Inh: Inh ỏi, binh lính, chính giữa, dinh dưỡng, đỉnh chung, hình ảnh, kinh đô, khinh bỉ, linh thiêng, minh bạch, an ninh, nghinh chiến, nhinh nhỉnh, má phính, rình mò, sinh khí, tinh khiết, thính giả, vĩnh biệt, xinh đẹp, v.v.


- Ip: Lừa bịp, chíp chíp, dịp may, híp mắt, kịp thì, nhịp điệu, v.v.


- It: Ít ỏi, bịt miệng, chi chít, đá đít, hít hơi, đen kịt, khít khao, lít nước, mịt mờ, con nít, đông nghịt, quịt nợ, ríu rít, đen sịt, xa tít, thin thít, con vịt, xịt thuốc, v.v.


- Iu: Ỉu xịu, bận bịu, chịu khó, dịu dàng, hiu hắt, kĩu kịt, líu nhíu, níu lại, nhíu mắt, phụng phịu, ríu rít, tiu nghỉu, thiu thối, trìu mến, víu vào, bé xíu, v.v.


- Oai: Oai hùng, choai choái, đoái hoài, khoái chí, loài vật, năm ngoái, ngoại cảm, mệt nhoài, soái phủ, toại nguyện, thoải mái, xoai xoải, v.v.


- Oi: Oi bức, thầy bói, cõi Phật, chọi gà, theo dõi, đòi nợ, gọi dạ bảo vâng, giỏi giang, hói đầu, khỏi bệnh, lòi tói, mỏi mệt, nòi giống, ngòi bút, nhoi nhói, rọi đèn, soi gương, củ tỏi, thói đời, trói buộc, vòi nước, xoi bói, v.v.


- Ôi: Ôi chao! Bối rối, cỗi rễ, chồi cây, dồi dào, đôi khi, gội đầu, giồi phấn, hối cải, khôi phục, lôi thôi, mối tình, nối dõi, ngồi xuống, nhồi thịt, phối hợp, rối loạn, sôi nổi, tối cao, thôi thúc, trôi chảy, vội vã, xối xả, v.v.


- Ơi: Ới trời ơi! Bơi lội, dời đổi, đời người, giới thiệu, hơi thở, khởi hành, lợi hại, mới tinh, nơi chốn, ngợi khen, phơi phới, rời khỏi, sợi dây, tơi bời, thời sự, trời biển, vời vợi, xới đất,v.v.


- Ui: Ủi quần áo, búi tóc, cúi đầu, chùi tay, dùi trống, đui mù, giúi tiền, húi tóc, khui thùng gạo, lui lủi, mui xe, nùi lửa, ngùi ngùi, nhủi vào lỗ, phủi bụi, rủi ro, sui gia, túi bụi, thui thủi, trụi lủi, vui vẻ, xui khiến, v.v.


- Ưi: Khung cửi, chửi mắng, gửi thư, ngửi hơi,v.v.


- Uôi: Buổi sáng, cuối cùng, chuỗi hạt, duỗi chân, đuôi ngựa, muối mặt, nuôi dưỡng, nguôi giận, ruổi theo, suối vàng, tuổi tác, xuôi lòng, v.v.


- Ươi: Quả bưởi, cưới hỏi, dưới nước, lười biếng, mười mươi, người ta, rười rượi, lò sưởi, tươi cười,v.v.


2. Những Chữ Sau Đây Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "I" Bằng Cách Ghép Phụ Âm Đơn với Nguyên Âm "I."


-"B-i": Bi ai, hòn bi, bí ba bí bô, bí mật, quả bí, vận bí, say bí tỉ, li bì, so bì, phong bì, bì bạch, bì phu, bỉ sắc tư phong, bỉ thử, bỉ mặt, bĩ cực, bị tù, bị động, phòng bị, bị gậy, bị té, v.v.


- "D-i": Di cư, Di Đà, di tích, man di, tru di, di ngôn, di hài, di họa, di truyền, di vật, dí vào, bẹp dí, dì ghẻ, dỉ tai, bất đắc dĩ, khả dĩ, dĩ nhiên, dĩ vãng, kỳ dị, dị đoan, dị nghị, v.v.


- "Đ-i": Đi bộ, đi đời, đi cầu, đi đứt, đi thi, đi tu, đi vắng, đi đò, lờ đi, bỏ đi, lẹ đi, đi lẹ, làm đi, đì đẹt đì đùng, đĩ điếm, v.v.


- "G-i": Gí mũi vào, can gì, có gì đâu, v.v.


- "H-i": Khóc hi hi, cười hi hỉ, ngựa hí, hí hởn, hí hoáy, hí hởn, hí hửng, hì hà hì hục, cười hì hì, hỉ mũi, hỉ hả, v.v.


- "K-i": Ki lô mét, một kí, kì kèo, kị (cụ), v.v.


- "L-i": Li bì, nhỏ li ti, lí la lí lô, lí nhí, lì lợm, lì xì, v.v.


- "M-i": Mi (mày), mi (nốt đàn), lông mi, mí mắt, bánh mì, Mị Châu, mị dân, Mị Nương, v.v.


- "N-i": Chỗ ni chỗ nớ (chỗ này chỗi kia), ni cô, nỉ non, nỉ (dạ, len), v.v.


- "R-i": Khóc như ri, làm ri (làm thế này), nước chảy ri rỉ, nhỏ rí, xanh rì, rì rầm (thì thầm), chậm rì rì, mưa rì rào, mưa rỉ rả, rỉ từng giọt, rỉ tai, rỉ hơi, v.v.


- "S-i": Cây si, si tình, ngu si, gắn si, đen sì, bán sỉ, liêm sỉ, sỉ nhục, sỉ vả, văn sĩ, kẻ sĩ, sĩ tử, sĩ hoạn, sĩ phu, nghệ sĩ, sĩ quan, binh sĩ, sĩ diện, sĩ khí, v.v.


- "T-i": Tôn ti trật tự, kẻ tôn người ti, ti hí, ti ma (để tang 3 tháng), ti toe, ti trúc, ti hí, ti tỉ tì ti, tí hon, một tí, tí nhau, tí teo, tí tẹo, tí xíu, tí ti, tí tị, tí nữa, tí chút, tí tách, tí toe tí toét, cậu bé Tí, tí xíu, tì tích, tì hưu, tì tì, tì tay xuống, ngọc tỉ, tỉ tê, lòi tĩ, ganh tị, ghen tị, tị tẹo, v.v.


- "V-i": Vi cá (vây cá), vi trùng, vi hành, chu vi, hiển vi, huyền vi, hành vi, vi hiến, vi âm, vi vu, vi vút, cái ví, ví von, ví bằng, ví dụ, ví như, trị vì, tại vì, nể vì, vì đâu, vì rằng, bởi vì, làm vì, thay vì, vì thế, vì vèo, vỉ đập ruồi, thủ vĩ, vĩ tuyến, vĩ đại, vĩ đạo, vĩ đại, vĩ nhân, vĩ tuyến, ngôi vị, vô vị, quý vị, bài vị, tự vị, vị chi, tì vị, vị lai, vị tha, vị chi, mùi vị, gia vị, vị giác, vị hôn thê, vị kỷ, vị lai, vị lợi, vị nể, vị tất, vị thành niên, vị trí, vị vong nhân, v.v.


- "X-i": Xi đái, gắn xi, xi măng, chuồng xí, xí gạt, xí nghiệp, cờ xí, xí chỗ, xí phần, xí xóa, xí xa xí xô, xì hơi, xì xào, xì dầu, xì gà, xì xằng, xì xụt, xì xụp, xì xồ, bạch xỉ, xỉ mũi, xa xỉ, xỉ vả, xị mặt ra, v.v.


3. Những Chữ Sau Đây Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "I" Bằng Cách Ghép Phụ âm Kép với Nguyên Âm "I."


"Ch-i": Làm chi vậy, tứ chi, hình chữ chi, thập nhị chi, chi thu, chi nhánh, chí khí, chi lan, tạp chí, chí hiếu, chí cuối, con chí, hạ chí, bút chì, chỉ chỏ, chỉ biết, sợi chỉ, tôn chỉ, chứng chỉ, cấm chỉ, Giao Chỉ, điểm chỉ, chỉ bảo, chỉ số, chỉ trích, chị em, v.v.


"Gh-i": Ghi chép, ghi nhớ, ôm ghì, v.v.


"Kh-i": Khi xưa, khinh khi, khi không, khi quân, khi đi, không khí, khí cụ, khí cốt, tức khí, tinh khí, khí cầu, khí hậu, khí phách, khí quản, khí tiết, khí tượng, khí huyết, khí khái, khí sắc, khí vật, đồ khí gió, cười khì, ngủ khì, con khỉ, khỉ khô, v.v.


"Ngh-i": Nghi hoặc, nghi lễ, tiện nghi, nghi gia, nghi ngút, nghí ngoáy, vô nghì, nghỉ ngơi, nghĩ ngợi, lo nghĩ, hữu nghị, quyết nghị, nghị lực, nghị luận, v.v.


"Nh-i": Nhi đồng, nhí nhảnh, hạng nhì, nhì nhằng, to nhỉ, đẹp quá nhỉ! Nhĩ mục(tai mắt), mộc nhĩ, nhị đào, đệ nhị, nhị tì, Nhị Độ Mai, Nhị Hà, v.v.


"Ph-i": Chánh phi, phi mỡ, phi cơ, phi tang, phi mã, phi chiến, phi đạn, Phi Châu, Phi Luật Tân, phi tần, phi phàm, phi lý, phí phạm, phát phì, phì cười, phì nhiêu, phì phà phì phèo, thở phì phì, phỉ lòng, thổ phỉ, phỉ báng, phỉ chí, phỉ sức, phỉ nhổ, phỉ vào mặt, phị mặt ra, v.v.


"Th-i": Thi cử, thi sĩ, Kinh Thi, con nhà thi lễ, dòng dõi thi thư, thi hài, cỏ thi, thi ân, thí sinh, thí nghiệm, bố thí, thí mạng, thí phát, thí dụ, đói thì ăn, thì giờ, dậy thì, cây thì là, thì ra, thì thầm, thì thọt, thì thùng, hồ thỉ, quả thị, dấu hoa thị, thị vệ, thị giác, thị thực, thị uy, kỳ thị, thị hiếu, yết thị, thị dục, Phạm Thị Thu, miệt thị, thị phi, đích thị, thị vệ, thị nữ, thị xã, v.v.


"Tr-i" Bạn tri âm, bố trí, tri giác, trí mạng, tri phủ, trí sĩ, trí tuệ, thông tri, trí thức, trí trá, bảo trì, duy trì, đan trì, trì giới, trì hoãn, phù trì, thành trì, trì trọng, trụ trì, ấu trĩ, bệnh trĩ, chim trĩ, bình trị, cai trị, giá trị, trị liệu, trị tội, trị thủy, v.v.


C. Những Chữ Chỉ Được Viết với Nguyên âm "Y"


1. Những Chữ Có Các Vần Sau Đây Chỉ Được Viết với Nguyên Âm "Y": ay, ây, oay, uây, uy, uya, uych, uyên, uyêt, uynh, uyt, uyu, yên, yêt, và ynh.


- Ay: Áy náy, tụi bay, cay cú, ăn chay, day dứt, dạy bảo, đáy nồi, gay gắt, giày dép, hay chữ, khay nước, lay động, may mắn, nảy mầm, ngay thật, nhay nháy, dao phay, quay mình, ray rứt, say mê, tay chân, thay đổi, trảy (hái) quả mơ, vay nợ, xảy ra, v.v.


- Ây: Cái ấy, bây giờ, cây cảnh, cây đàn, chầy cối, dây thép, đây này, gây gổ, giây phút, hây hây, lầy nhầy, mấy quyển sách, nẩy mầm, ngây ngất, nhầy nhụa, phây phây, quây quần, rầy rà, sẩy đàn, tầy trời, thầy mẹ, trẩy hội, vây cánh, xây nhà,v.v.


* Trường hợp sau đây là ngoại lệ vì chữ viết và đọc khác nhau nhưng có cùng một nghĩa: quải gánh, quảy gánh, hay quẩy gánh (đều có cùng một nghĩa là gánh trên vai).


- Oay: Cái khoáy, loay hoay, nghí ngoáy, xoay vần, v.v.


- Uây: Khuây khỏa, ngoe nguẩy, v.v.


- Uy: Uy danh, cung thương giốc chủy vũ, duy ngã, huy hiệu, khuy áo, lũy tre, nguy cấp, suy nhược, tuy nhiên, thủy chung, truy tố, cổ xúy, v.v.


- Uya: Thức khuya, v.v.


- Uych: Ngã uỵch, huých nhau, huỳnh huỵch, v.v.


- Uyên: Uyên bác, chuyên cần, duyên dáng, huyên náo, khuyên bảo, luyến ái, nguyên chất, nhuyễn thể, bệnh suyễn, tuyên dương, thuyên chuyển, truyền thống, xuyên tạc, v.v.


- Uyêt: Chuyết kiến (ý kiến thô thiển của tôi), duyệt binh, huyết mạch, khuyết điểm, nguyệt liễm, tuyệt diệu, thuyết phục, điểm xuyết, v.v.


- Uynh: Huynh đệ, khuynh hướng, luýnh quýnh, v.v.


- Uyt: Huýt sáo, lườm nguýt, xuýt chết, v.v.


- Uyu: Khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, v.v.


- Yên (qu + yên): Quyên sinh, quyến thuộc, quyền lợi, chính quyền, lưỡng quyền, quyền quý, quyển sách, ống quyển, v.v.


- Yêt (qu + yêt): Cương quyết, bí quyết, hành quyết, quyết nghị, xảo quyệt, v.v.


- Ynh (qu + ynh): Mừng quýnh, cây quỳnh, quỳnh bôi, quỳnh tương, v.v.


2. Những Chữ Sau Đây Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "Y" Đứng Một Mình hay Đứng Đầu Mỗi Chữ:


- Nguyên Âm "Y" Đứng Một Mình:


Y đến rồi, y án, vàng y, qui y, chuẩn y hay y chuẩn, y hẹn; y hi, y sĩ, qui y, y theo, ý chí, ý định, ý nhị, ý kiến, ý nghĩa, ý thích, ý tứ, ý vị, ỷ mình, ỷ lại, ỷ lại, ỷ quyền, béo ỵ, v.v.


- Nguyên Âm "Y" Đứng Đầu Mỗi Chữ:


Yêm hoạn (hoạn quan), yếm thế, yểm bùa, cái yếm, yểm trợ, v.v.; Yên Đổ (Nguyễn Khuyến), Bình yên, yên hà, yên xe, yên đổ (tửu sắc yên đổ), yên trí, yến tiệc, yến oanh, yến sào, v.v.; con yểng; yết hầu, yết kiến, niêm yết, yết thị, yết hậu (lối thơ mà câu cuối cùng chỉ có một chữ), v.v.; yêu cầu, yêu chuộng, yêu đạo, yêu quái, yêu vận, phái yếu, yếu điểm, yếu tố, chết yểu, yểu điệu, yểu tướng, v.v.


3. Những Chữ Sau Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "Y" Bằng Cách Ghép Phụ Âm Đơn với Nguyên Âm "y."


-"H-y": Hy Lạp, hy vọng, hy sinh, hy hãn, hý lộng, hý ngôn, hỷ lạc, hỷ nộ, hỷ sự, v.v.


-"K-y": Ký âm, bi ký, chữ ký, ký danh, ký giả, ký hiệu, ký lục, nhật ký, ký quỹ, ký sinh trùng, ký sự, ký tên, ký túc xá, ký thác, thư ky,ù ký ức, Bắc Kỳ, cầm kỳ thi hoạ, kỳ cục, kỳ cùng, cực kỳ, kỳ cựu, kỳ diệu, kỳ duyên, kỳ đà, kỳ đài, đến kỳ, kỳ đồng, kỳ được, kỳ ghê, kỳ hạn, kỳ hào, hiếu kỳ, học kỳ, kỳ khôi, kỳ khu, kinh kỳ, kỳ lạ, kỳ lão, kỳ lân, kỳ lưng, kỳ mục, Nam Kỳ, kỳ ngộ, phân kỳ, kỳ phùng địch thủ, kỳ quặc, kỳ quái, kỳ quan, quốc kỳ, kỳ thị, kỳ thú, kỳ thực, Trung Kỳ, kỳ vọng, kỷ cương, ghế trường kỷ, ích kỷ, kỷ luật, kỷ lục, kỷ niệm, kỷ nguyên, tự kỷ, thế kỷ, kỷ yếu; kỹ càng, kỹ nghệ, làm kỹ, kỹ nữ, ngủ kỹ, kỹ nhé, kỹ sư, kỹ thuật, nhà có kỵ (ngày giỗ), đố kỵ, kỵ binh, kỵ gió, kỵ mã, kỵ nhau, kỵ sĩ, v.v.


- "L-y": cái ly, ly biệt, quẻ ly, hồ ly, ly bôi (chén rượu uống lúc chia tay), ly dị, ly gián, ly hương, ly khai, ly kỳ, ly tán, giáo lý, lý ngư, cố lý, hành lý, đào lý, lý lẽ, lý hóa, lý lịch, lý sự, lý tài, lý thuyết, lý trí, lý tưởng, lý trưởng, mạ lỵ, bệnh kiết lỵ, v.v.


- "M-y": Bắc Mỹ, Mỹ Châu, Mỹ Quốc, Mỹ kim, hoa mỹ, mỹ sắc, thẩm mỹ, Mỹ Tho, mỹ thuật, mỹ tục, mỹ từ pháp, mỹ tửu, mỹ xảo, mỹ vị, mỹ viện, mỹ ý, v.v.


- "T-y": Ty mật thám, công ty, tỳ tạng, tỳ kheo, tỳ vị, tỷ đối, tỵ hiềm, v.v.


III. Nguyên Tắc Đánh Dấu trong Tiếng Việt:


- Nếu một chữ có phụ âm đơn hay phụ âm kép ghép với một nguyên âm, thì các dấu phải đánh vào nguyên âm đó: bé, tá, phò mã, khỉ, xạ thủ, v.v.


- Nguyên âm "u" và "i" trong phụ âm kép "qu" và "gi" đã cùng với phụ âm "q" và "g" để biến thành phụ âm kép chứ không còn là một nguyên âm nữa. Chính vì thế mà hai phụ âm kép này ghép với 1 hay 2 nguyên âm thì các dấu phải đánh vào nguyên âm ở ngay sau phụ âm kép này: quý, quí, quá, quà, quả, quỹ quạ, già, giá, giữa, giác, giải, giả, v.v.


- Nếu trước 2 nguyên âm mà có phụ âm đơn hay kép và sau 2 nguyên âm này lại không có phụ âm nào thì các dấu phải đánh vào nguyên âm thứ nhất như: chùa, chúa, thúy, thùy, thúi, lũy, gào, góa, bùa, của, bùi, chúa, khói, khảo, khóa, lìa, trào tráo, khéo, khỏe, khóe, chúi, thủy, và trụy, v.v.


- Trong một chữ có 2 hay 3 nguyên âm mà1 nguyên âm đã có dấu sẵn như: ă, â, ê, ô, ơ, ư, v.v. thì các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, và nặng phải đánh vào nguyên âm đó: thuế, thuấn, thuyền, thuở, uyển chuyển, chữa, suyễn, diễm, truyện, diệu, v.v. Nếu 2 nguyên đều có dấu cả như "ư và ơ" thì các dấu phải đánh lên nguyên âm thứ hai: tướng lãnh, thường lệ, thưởng phạt, dưỡng khí, thượng lộ, v.v.


- Nếu trong một chữ chỉ có 2 nguyên âm mà trước và sau 2 nguyên âm này đều có phụ âm đơn hay kép thì các dấu phải đánh vào nguyên âm thứ hai: đoán, khoáng, khoát, khoét, toàn, khoảng, loãng, loạng choạng, v.v.


- Khi một chữ tận cùng bằng 3 nguyên âm, thì các dấu phải đánh lên nguyên âm ở giữa như: thoái thác, ngoéo cổ, cười, bải hoải, khúc khuỷu, choãi chân, hải ngoại, v.v.


IV. Tổng Kết


Những điều chúng tôi trình bày trên đây là có ý định giúp các bạn trẻ ở hải ngoại có tài liệu học hỏi về cách ghép vần với nguyên âm "i" và "y" cùng với cách đánh dấu tiếng Việt. Việc ghép vần và đánh dấu tiếng Việt hết sức là quan trọng. Chúng ta cần phải học hỏi và nghiên cứu mới thấu đáo được. Có thấu đáo được cách ghép vần và đánh dấu tiếng Việt thì mới giỏi tiếng Việt. Có giỏi tiếng Việt ta mới xứng đáng là người Việt và mới có cơ hội học hỏi về lịch sử, phong tục, và truyền thống của tổ tiên. Có như thế thì nước Việt của chúng ta mới thoát khỏi ách Cộng Sản. Có thoát khỏi ách Cộng Sản, nước ta mới hùng cường và toàn dân mới được hưởng dân chủ, tự do, nhân quyền, âm no, và hạnh phúc muôn đời.


Canada, 2003

Khải Chính Phạm Kim Thư

Luật viết dấu Hỏi và Ngã

Đa số tiếng Việt mình dùng chữ gốc Hán tự, có lẽ lên đến khoảng 80%, lâu dần thành chữ Việt và mình gọi là: Hán Việt. Giáo sư Nguyễn tài Cẩn có đưa ra một nguyên tắc rất tiện, đó là:
" Mình Nên Nhớ Viết Là Dấu Ngã "

Nghĩa là nếu gặp một chữ Hán Việt nào bắt đầu bằng một trong những âm chữ ... màu đỏ của câu trên thì ... cứ hiên ngang bỏ dấu ngã . Chỉ có 1 ngoại lệ : chữ : ngải cứu ( như trong bùa ngải !! ) . Sau đây là một số thí dụ :


- M : Mỹ mãn , mãnh hổ , mẫu số , mãng xà , miễn dịch , mã lực , mãn khoá .. giờ mão , kiểu mẫu ...

- N : truy nã , nỗ lực .... nam nữ , trí não ...
- NH : Nhũng nhiễu , nhã nhặn , nhẫn nại ,nhiễm thể ,nhiễm độc ,nhãn hiệu , thổ nhưỡng ...
- V : vũ lực , vãng lai , vãn cảnh , vĩnh viễn , vĩ tuyến .. hùng vĩ ....
- L : lữ khách , lễ độ , lãnh đạm , lãng mạn ... nguyệt liễm , kết liễu ...
- D : dã man , dũng cảm , dĩ nhiên , diễn viên ... dung dưỡng ...
- NG : ngưỡng mộ , nghĩa cử , ngũ sắc , Nguyễn Du .. ngôn ngữ , tín ngưỡng , vị ngã ....

Còn ngoài ra cứ bỏ dấu hỏi, chỉ trừ ra một số ít các chữ sau đây là ... ngoại lệ ( có việc gì mà không có ... exception !! ) :


Kỹ ( kỹ thuật , kỹ nữ )

Bãi ( bãi chức , bãi khoá )
Bĩ ( bĩ cực , vận bĩ )
Hữu ( bằng hữu , hữu ích , hữu khuynh )
Phẫu ( giải phẫu )
Cữu ( linh cữu ) .. chữ này có rất nhiều người dùng sai là : linh cửu !!!
Tiễn ( tiễn biệt , tống tiễn , hoả tiễn )
Tiễu ( tiễu trừ , tiễu phỉ ) .. chữ này cũng hay dùng sai là : tiểu trừ !!!
Trẫm ( tiếng của Vua )
Trĩ ( ấu trĩ , chim trĩ )
Trữ ( tích trữ )
Huyễn ( huyễn hoặc )
Hỗ ( hỗ trợ )
Hãm ( giam hãm )
Đãng ( phóng đãng , quang đãng )
Quẫn ( khốn quẫn , quẫn bách )
Xã ( xã hội )
Hoãn ( trì hoãn )
Quĩ ( quĩ tích , thủ quĩ )
Suyễn ( bệnh suyền )
Cưỡng ( cưỡng ép )
Tuẫn ( tuẫn nạn )
Đễ ( hiếu đễ )
Sĩ ( kẻ sĩ )
Khoảng .. 24 chữ ... biệt lệ !!

Hồng Phượng

Dấu "Hỏi - Ngã" trong văn chương Việt Nam

Văn hóa Việt Nam của chúng ta vô cùng phong phú. Một trong những nguồn phong phú vô ngàn mà trên thế giới không ai có, đó là ý nghĩa về dấu hỏi ngã Thật thế, dấu hỏi ngã trong tiếng Việt đóng một vai trò quan trọng. Viết sai dấu hỏi ngã sẽ làm đảo ngược và có khi vô cùng tai hại cho văn chương và văn hóa Việt Nam.

Chúng tôi xin đơn cử một vài trường hợp như sau. Danh từ nhân sĩ, chữ sĩ phải được viết bằng dấu ngã để mô tả một vị chính khách có kiến thức văn hóa chính trị..., nhưng nếu vô tình chúng ta viết nhân sỉ, chữ sỉ với dấu hỏi thì ý nghĩa của danh từ nhân sĩ sẽ bị đảo ngược lại, vì chữ sĩ với dấu hỏi có nghĩa là nhục sĩ và như vậy sẽ bị trái nghĩa hoàn toàn. Một chữ thông thường khác như là hai chữ sửa chữa, nếu bỏ đi dấu hỏi ngã sẽ có nhiều ý khác nhau: sửa chữa (sửa dấu hỏi, chữa dấu ngã) tức là chúng ta sửa lại một cái gì bị hư hỏng, thí dụ sửa chữa xe hơi. Nhưng nếu cho dấu ngã vào thành chữ sữa và dấu hỏi trên chữ chửa tức có nghĩa là sữa của những người đàn bà có thai nghén.

Người sai lỗi nhiều nhất về viết sai dấu hỏi ngã là người miền Nam và Trung (người viết bài này là người miền Trung). May mắn nhất là người thuộc miền Bắc khi sinh ra là nói và viết dấu hỏi ngã không cần phải suy nghĩ gì cả. Nhưng khốn nỗi có khi hỏi họ tại sao chữ này viết dấu hỏi chữ kia lại đánh dấu ngã thì họ lại không cắt nghĩa được mà chỉ nở một nụ cười trên môi...

Bài viết này nhằm mục đích đóng góp một vài qui luật về dấu hỏi ngã của tiếng mẹ đẻ Việt Nam chúng ta.

Dấu hỏi ngã được căn cứ vào ba qui luật căn bản: Luật bằng trắc, chữ Hán Việt và các qui luật ngoại lệ.

A. LUẬT BẰNG TRẮC

Qui luật bằng trắc phải được hiểu theo ba qui ước sau.

1. Luật lập láy

Danh từ lập láy tức là một chữ có nghĩa nhưng chữ ghép đi theo chữ kia không có nghĩa gì cả. Thí dụ: vui vẻ, chữ vui có nghĩa mà chữ vẻ lại không nghĩa, chữ mạnh mẽ, chữ mạnh có nghĩa nhưng chữ mẽ lại không hề mang một ý nghĩa nào hết, hoặc chữ lặng lẽ, vẻ vang...

2. Luật trắc

Không dấu và dấu sắc đi theo với danh từ lập láy thì chữ đó viết bằng dấu hỏi (ngang sắc hỏi).

Thí dụ:

Hớn hở: chữ hớn có dấu sắc, thì chữ hở phải là dấu hỏi.
Vui vẻ: chữ vui không dấu, thì chữ vẻ đương nhiên phải dấu hỏi.
Hỏi han: chữ han không dấu, như thế chữ hỏi phải có dấu hỏi.
Vớ vẩn: chữ vớ là dấu sắc thì chữ vẩn phải có dấu hỏi.
Tương tự như mắng mỏ, ngớ ngẩn, hở hang, ...

3. Luật bằng

Dấu huyền và dấu nặng đi theo một danh từ lập láy thì được viết bằng dấu ngã (huyền nặng ngã).
Thí dụ:

Sẵn sàng: chữ sàng có dấu huyền thì chữ sẵn phải là dấu ngã.
Ngỡ ngàng: chữ ngàng với dấu huyền thì chữ ngỡ phải để dấu ngã.
Mạnh mẽ: chữ mãnh có dấu nặng, do đó chữ mẽ phải viết dấu ngã.
Tương tự như các trường hợp lặng lẽ, vững vàng,...

B. CHỮ HÁN VIỆT

Văn chương Việt Nam sử dụng rất nhiều từ Hán Việt, chúng ta hay quen dùng hằng ngày nên cứ xem như là tiếng Việt hoàn toàn. Thí dụ như các chữ thành kiến, lữ hành, lãng du, viễn xứ, ... tất cả đều do chữ Hán mà ra.

Đối với chữ Hán Việt được sử dụng trong văn chương Việt Nam, luật về đánh dấu hỏi ngã được qui định như sau:

Tất cả những chữ Hán Việt nào bắt đầu bằng các chữ D, L, V, M và N đều viết bằng dấu ngã, cá chữ Hán Việt khác không bắt đầu bằng năm mẫu tự này sẽ được viết bằng dấu hỏi.

Thí dụ:

Dĩ vãng: hai chữ này phải viết dấu ngã vì dĩ vãng không những là hán tự mà còn bắt đầu bằng chữ D và V.

Vĩ đại: vĩ có dấu ngã vì chữ vĩ bắt đầu với mẫu tự V.
Ngẫu nhiên: chữ ngẫu dấu ngã vì áp dụng qui luật Hán Việt nói trên.
Lẽ phải: lẽ dấu ngã vì chữ L, phải dấu hỏi vì có chữ P.
Tư tưởng: chữ tưởng phải viết dấu hỏi vì vần T đứng đầu.

Tương tự như: lữ hành, vĩnh viễn,...

Để thể nhớ luật Hán tự dễ dàng, chúng tôi đặt một câu châm ngôn như thế này:

"Dân Là Vận Mệnh Nước"

để dễ nhớ mỗi khi muốn sử dụng qui luật Hán tự nói trên.

C. CÁC QUI ƯỚC KHÁC

1. Trạng từ (adverb)

Các chữ về trạng từ thường viết bằng dấu ngã.

Thí dụ:

Thôi thế cũng được. Trạng từ cũng viết với dấu ngã.
Xin anh đừng trách em nữa. Trạng tự nữa viết với dấu ngã.
Chắc anh đã mệt lắm rồi. Trạng từ đã viết với dấu ngã.

2. Tên họ cá nhân và quốc gia

Các họ của mỗi người và tên của một quốc gia thường được viết bằng dấu ngã.

Thí dụ:

Đỗ đình Tuân, Lữ đình Thông, Nguyễn ngọc Yến...
Các chữ Đỗ, Lữ, Nguyễn đều viết bằng dấu ngã vì đây là danh xưng họ hàng.

Nước Mỹ, A phú Hãn,...
Các chữ Mỹ và Hãn phải viết bằng dấu ngã vì đây là tên của một quốc gia.

3. Thừa trừ

Một qui ước thừa trừ ta có thể dùng là đoán nghĩa để áp dụng theo luật lập láy và bằng trắc nói trên.

Thí dụ:

Anh bỏ em đi lẻ một mình. Chữ lẻ viết dấu hỏi vì từ chữ lẻ loi mà ra, chữ loi không dấu nên chữ lẻ viết với dấu hỏi.

Anh này trông thật khỏe mạnh, chữ khỏe ở đây có dấu hỏi vì do từ khỏe khoắn mà ra, khoắn dấu sắc thì khỏe phải dấu hỏi.

D. KẾT LUẬN

Văn chương là linh hồn của nền văn hóa, viết sai dấu hỏi ngã có thể làm sai lạc cả câu văn, đó là chưa kể đến nhiều sự hiểu lầm tai hại cho chính mình và người khác cũng như các việc trọng đại. Không gì khó chịu cho bằng khi đọc một cuốn truyện hay nhưng dấu hỏi ngã không được chỉnh tề.

Một ký giả người miền Nam trong câu chuyện thân mật tại một quán phở thược vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn đã thành thật công nhận điều thiếu sót và tầm quan trọng của dấu hỏi ngã trong văn chương Việt Nam. Và cũng chính vị ký giả lão thành nói trên đã khuyến khích chúng tôi viết bài này trong mục đích làm sống lại sự phong phú của nền văn chương, văn hóa Việt Nam chúng ta, nhất là đối với những thế hệ trẻ hiện đang lưu lạc trên xứ người.

CAO CHÁNH CƯƠNG
Trích tài liệu khóa Tu nghiệp Sư phạm 1991
Của các Trung tâm Việt ngữ Miền Nam Cali